Bài viết dưới đây phân tích những nhân tố ảnh hưởng và nguyên nhân của việc trốn đóng BHXH bắt buộc dựa trên tổng quan nghiên cứu ở một số quốc gia và liên hệ với thực trạng tại Việt Nam; từ đó đưa ra một số gợi ý chính sách nhằm hạn chế tính trạng này trong bối cảnh hiện nay.
![]() |
Ảnh minh họa. |
Tổng quan nghiên cứu
Tuân thủ là một trong những yêu cầu cấp thiết của mọi hệ thống và trốn đóng BHXH là vấn đề nghiêm trọng đe dọa tới an sinh xã hội của nhiều quốc gia. Việc trốn đóng xảy ra khi NLĐ và NSDLĐ không trả hoặc trả thấp hơn các khoản đóng góp BHXH bắt buộc so với quy định (Bailey và Turner, 2001). Cả NSDLĐ và NLĐ đều có động cơ đóng góp cũng như động cơ trốn tránh và các động cơ khuyến khích cho từng nhóm có thể được xem xét riêng biệt. Tuy nhiên, tỷ lệ trốn đóng thực tế phụ thuộc vào mối tương tác giữa hai bên cũng như sự tương tác của cả hai nhóm người tham gia với cơ quan quản lý và thực thi BHXH của chính phủ (Nyland và cộng sự, 2011).
Theo (Bailey và Turner, 2001) để xảy ra tình trạng trốn đóng góp cần có ba điều kiện:
a). NLĐ đồng thuận với việc không trả tiền đóng góp hoặc miễn cưỡng báo cáo việc không đóng góp cho cơ quan chính phủ hoặc không có khả năng phản hồi.
b). NSDLĐ muốn trốn tránh hoặc đặt mức độ ưu tiên thấp vào việc đóng góp BHXH cho NLĐ liên quan đến việc sử dụng chi phí đóng góp cho các mục đích khác nhau.
c). Cơ quan thực thi của chính phủ chấp nhận việc trốn tránh hoặc không đủ khả năng để ngăn chặn điều đó.
Trên góc độ NLĐ, các lý do trốn đóng góp có thể bao gồm việc NLĐ không sẵn sàng trả tiền hoặc miễn cưỡng báo cáo việc không đóng góp với cơ quan chức năng, dẫn đến khuyến khích NSDLĐ tiếp tục không tuân thủ. Điều này có thể được lý giải do trước mắt lợi ích của NSDLĐ và NLĐ là phù hợp với nhau khi cả hai đều giảm chi phí tức thời của họ bằng cách trốn tránh đóng góp. Do vậy, việc trốn đóng góp nói chung phải liên quan đến sự thông đồng giữa NSDLĐ và NLĐ. Tuy nhiên, thực tế vẫn xảy ra khi NLĐ không biết hoặc không có khả năng trong việc phản hồi hành vi trốn đóng góp của NSDLĐ. Điều này là do NLĐ hiếm khi có đủ năng lực để yêu cầu Nhà nước sử dụng các biện pháp mạnh mẽ để bảo vệ mình. Tại hầu hết các quốc gia, các chính phủ có xu hướng giám sát chặt chẽ và kỷ luật nghiêm ngặt đối với NSDLĐ.
![]() |
Tư vấn về thủ tục BHXH cho người lao động tại BHXH TP. Hồ Chí Minh. Ảnh: KHÁNH TRẦN. |
Trong khi đó Nyland và cộng sự (2012) đã chỉ ra các đặc điểm của doanh nghiệp liên quan đến hành vi không tuân thủ đóng góp của NSDLĐ bao gồm: i). Các yếu tố rủi ro; ii). Thành phần kỹ năng của lực lượng lao động và iii). Hình thức sở hữu. Nghiên cứu trên ban đầu đã dự đoán rằng quy mô doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ, nhưng không bằng chứng rõ ràng nào xuất hiện. Sự trốn tránh của NSDLĐ cũng có thể là hậu quả của việc chính phủ khoan dung, không sẵn sàng đưa ra các hình phạt hiệu quả hoặc không đủ khả năng để kiềm chế sự tái diễn của nó. Theo đó, những tổ chức và doanh nghiệp ngoài quốc doanh có xu hướng trốn đóng BHXH nhiều hơn so với các tổ chức trong Nhà nước hoặc chính phủ.
Chủ đề cuối cùng xuyên suốt phần lớn tài liệu nghiên cứu là năng lực quản lý của cơ quan chức năng (Skocpol, 1990). Trong nhiều trường hợp chính phủ không có đủ nguồn lực và chuyên môn cần thiết để giám sát hiệu quả và truy tố những NSDLĐ không tuân thủ hoặc các yếu tố phi chính thức thường khiến các chiến lược chỉ huy không thể thực hiện được (Nyland và cộng sự, 2011).
Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê của cơ quan BHXH, tính đến tháng 11/2021, số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN lên tới 27 nghìn tỷ đồng. Nợ đọng BHXH có chiều hướng tăng do tác động của dịch Covid-19, ảnh hưởng đến quyền của NLĐ, đặc biệt là an sinh xã hội. Năm 2020, số tiền chậm đóng BHXH, khó thu là hơn 2.560 tỷ đồng, gấp 1,6 lần so với thống kê trong năm 2016. Tính đến tháng 11/2021, tổng số nợ BHXH, BHYT, BHTN cũng tăng gần 7% so với số phải thu (so với cùng kỳ năm 2020, số tiền nợ giảm hơn 7 nghìn tỷ đồng, nhưng tỷ lệ nợ so với số phải thu tăng). Thêm vào đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là nhóm có tỷ trọng nợ nhiều nhất với 5.359 tỷ đồng vào năm 2019 đã tăng lên 6.146 tỷ đồng, chiếm 71,06% tổng nợ BHXH do tác động của dịch bệnh.
![]() |
Đoàn Thanh tra về BHXH, BHTN, BHYT tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm việc tại Xí nghiệp Dịch vụ Cảng và Cung ứng vật tư Thiết bị thuộc Liên doanh Việt Nga Vietsovpetro. Ảnh: QUANG LÊ. |
Gợi ý chính sách
Các nguyên nhân được phân tích nói trên cho thấy, việc trốn đóng góp có thể được giảm bớt nhờ những thay đổi về mặt cơ chế chính sách bao gồm:
Cụ thể hóa các quy định xử lý đối tượng trốn đóng BHXH. Theo quy định hiện nay, các doanh nghiệp chậm đóng, trốn đóng BHXH có thể bị xử lý hình sự; tuy nhiên, tới thời điểm này vẫn chưa có doanh nghiệp nào bị xử lý do vướng mắc về các cơ chế hướng dẫn và phân loại đối tượng chậm đóng hay trốn đóng cũng như chưa có hướng dẫn về việc xử lý hình sự đối với pháp nhân. Do đó, cần làm rõ trách nhiệm của các cá nhân tổ chức và doanh nghiệp trong việc tham gia đóng góp BHXH như giám đốc, người đứng đầu tổ chức, doanh nghiệp để làm căn cứ xác định chủ thể vi phạm trốn đóng BHXH.
Tuyên truyền nhằm thay đổi thái độ của NSDLĐ, NLĐ và chính phủ đối với việc tuân thủ. Việc tuyên truyền cũng hướng tới các doanh nghiệp có thành tích tốt và tuân thủ đóng góp BHXH để giúp nâng cao uy tín và vị thế của các doanh nghiệp, định hướng khách hàng tiêu dùng tới các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội.
Tăng cường tính công khai và minh bạch trong quản lý quỹ BHXH có thể giúp thay đổi thái độ của các bên tham gia. Khi họ nhận thấy các yếu tố công bằng về quy trình và kết quả được đảm bảo sẽ có động cơ tuân thủ cao hơn theo như gợi ý trong nghiên cứu của Nyland và cộng sự (2012).
Đẩy mạnh hoạt động chuyển đổi số và quản lý điện tử trong thu nộp BHXH. Hiện phần mềm VSSID đã được BHXH Việt Nam đưa vào sử dụng; tuy nhiên, nhiều NLĐ vẫn chưa biết cách tiếp cận để theo dõi quá trình đóng góp cũng như phản hồi về quá trình tham gia của mình. Do đó, cần đẩy mạnh việc tập huấn sử dụng và đẩy mạnh tích hợp các tính năng kiểm tra, giám sát cho NLĐ để kịp thời ghi nhận, phản hồi các hành vi không tuân thủ hoặc những sai sót trong quá trình tổ chức thực hiện BHXH của bản thân NLĐ.
![]() |
Báo cáo viên tuyên truyền về Luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội cho công nhân Công ty TNHH Thương mại xuất nhập khẩu Hòa Phong (TP. Hải Phòng). Ảnh: Mai Hương. |
Liên kết và tích hợp các thông tin về thu nộp BHXH cũng như diễn biến thu nhập trên hệ thống điện tử giúp các cơ quan kiểm tra và giám sát có thể dễ dàng phát hiện các sai phạm trong việc đóng không đúng hoặc không đủ BHXH cho NLĐ. Điều này cũng hạn chế được tình trạng doanh nghiệp ký nhiều HĐLĐ với người tham gia để hợp thức hóa với cơ quan thuế và cơ quan BHXH; từ đó góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho NLĐ theo như mục tiêu chính sách BHXH đã đề ra.
Tài liệu tham khảo
1. Bailey Clive và John Turner (2001), Strategies to reduce contribution evasion in social security financing, Tạp chí World development, Số 29, trang 385-393.
2. Kim Thanh (2022), Chậm, trốn đóng BHXH: NLĐ thiệt thòi, truy cập ngày 5/6/2022, từ liên kết: https://vov.vn/xa-hoi/cham-tron-dong-bao-hiem-xa-hoi-nguoi-lao-dong-thiet-thoi-post923389.vov
3. Nyland Chris, S Bruce Thomson và Cherrie J Zhu (2011), Employer attitudes towards social insurance compliance in Shanghai, China, Tạp chí International social security review, Số 64, trang: 73-98.
4. Nyland Chris, Charmine EJ Hartel, Stanley Bruce Thomson và Cherrie Zhu (2012), Shaming and employer social insurance compliance behaviour in Shanghai, Tạp chí Journal of Contemporary Asia, Số 42, trang: 629-650.
![]() Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam đề xuất nâng từ 30% lên 50% mức hỗ trợ đóng Bảo hiểm y tế (BHYT) từ ngân ... |
![]() Hiện nay, tình hình sản xuất, kinh doanh có nhiều khởi sắc, tuy nhiên do ảnh hưởng trước đó của dịch COVID-19, nhiều doanh nghiệp ... |
![]() Bảo hiểm xã hội (BHXH) TP. Hà Nội vừa cho biết số đơn vị nợ BHXH trên địa bàn vẫn còn cao, số tiền nợ ... |
Tin mới hơn

“Thay” tư duy - “đổi” vận mệnh

Bất cập chính sách khi sắp xếp lại tổ chức bộ máy ở vùng đặc biệt khó khăn

Nghị quyết 57: Cởi trói pháp lý, mở đường sáng tạo
Tin tức khác

Biến phế phẩm thành “vàng” – sáng kiến của người cán bộ yêu nghề

Nghị quyết 57: “Cánh cửa vàng” mở ra kỷ nguyên mới cho công nhân Việt Nam

“Gieo hạt” tri thức, “gặt mùa” đổi thay

Nghị quyết 57: Người lao động có cơ hội “thăng hoa” cùng thời đại số

“Kênh ba bên” - mô hình đối thoại cần thiết trong nền kinh tế thị trường
