Nghiên cứu

Thực tiễn về đối thoại xã hội trong quan hệ lao động

TS. Cấn Hữu Dạn - ThS. Nguyễn Thị Nước - Trường Đại học Lao động - Xã hội
Đối thoại xã hội (ĐTXH) là con đường quan trọng để thúc đẩy việc thực hiện hiệu quả các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động tại nơi làm việc.
Thực tiễn về đối thoại xã hội trong quan hệ lao động
Hội nghị người lao động là nơi người lao động có cơ hội được phát biểu ý kiến tham gia quản lý doanh nghiệp và bảo vệ quyền lợi của mình. Trong ảnh, Chủ tịch Công đoàn các KCN tỉnh Bình Thuận phát biểu tại Hội nghị đại biểu người lao động Công ty TNHH may Thuận Tiến.

Quy chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước góp phần ĐTXH đã được luật hóa tại Khoản 4, Điều 10 Luật Cán bộ, công chức năm 2008; tại Khoản 2, Điều 18 Luật Viên chức năm 2010 và tại Điều 63, 64 Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 2019. ĐTXH trong quan hệ lao động (QHLĐ) có nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến nội dung, quy trình, nhận thức và thái độ của mỗi bên.

1. Khái quát về ĐTXH

ĐTXH có thể diễn ra ở các cấp độ khác nhau và dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh quốc gia. Theo định nghĩa rộng, ĐTXH bao gồm tất cả các loại đàm phán, tham vấn hoặc chia sẻ thông tin giữa các đại diện của chính phủ, NSDLĐ và NLĐ về những vấn đề quan tâm chung liên quan đến chính sách kinh tế và xã hội. ĐTXH mang tính xây dựng giữa NLĐ và NSDLĐ có nhiều lợi ích: tránh đối đầu và thúc đẩy hợp tác. Theo khoản 5, Điều 3, BLLĐ năm 2019, QHLĐ là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa NLĐ, NSDLĐ, các tổ chức đại diện của các bên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong phạm vi doanh nghiệp, QHLĐ cá nhân được xác lập thông qua HĐLĐ, khi NSDLĐ ký kết HĐLĐ với NLĐ hoặc đại diện của họ. QHLĐ tập thể được xác lập thông qua TƯLĐTT, khi đại diện tập thể NLĐ ký thỏa ước lao động với đại diện NSDLĐ.

2. Một số thực tiễn về ĐTXH trong QHLĐ

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 60/2013/NĐ-CP, Nghị định số 149/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Khoản 3, Điều 63 của BLLĐ (2012) về thực hiện QCDC ở cơ sở tại nơi làm việc áp dụng chung đối với các loại hình doanh nghiệp; vấn đề này tiếp tục được thể hiện ở Điều 63 và 64 BLLĐ 2019, quy định bắt buộc doanh nghiệp phải tổ chức ĐTXH định kỳ tối thiểu một năm/lần hoặc “theo yêu cầu của một hoặc các bên”.

Thực tế, các doanh nghiệp thực hiện đối thoại tại nơi làm việc (ĐTTNLV) theo những hình thức và phương thức khác nhau. Về mặt hình thức, doanh nghiệp ít vi phạm đến các điều khoản và nghị định liên quan đến ĐTXH. Nhưng về phương thức hoạt động và hiệu quả mang lại, ĐTXH chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Theo số liệu khảo sát năm 2017 của Bộ LĐ-TB&XH cho thấy, các doanh nghiệp đều triển khai thực hiện ĐTTNLV, trong đó 30% tổ chức đối thoại định kỳ 01 tháng/lần, 52% tổ chức đối thoại định kỳ 03 tháng/lần, 4% tổ chức 06 tháng/1 lần và 14% tổ chức 01 năm/1 lần.

Thực tiễn về đối thoại xã hội trong quan hệ lao động
Đại diện Công đoàn Công ty trực tiếp thăm hỏi, động viên người lao động tại Công ty Than Nam Mẫu (Quảng Ninh)

Qua quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 149/2018/NĐ-CP, các doanh nghiệp nhận thức được sự cần thiết, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện QCDC cơ sở tại nơi làm việc. Nhất là thông qua những vấn đề NLĐ được biết, được bàn bạc, tham gia ý kiến và được quyền giám sát đã nâng cao vị thế và trách nhiệm của NLĐ trong QHLĐ. Năm 2018, thực hiện QCDC tại nơi làm việc, các cấp công đoàn đã chủ động tham gia có hiệu quả xây dựng và thực hiện QCDC tổ chức Hội nghị NLĐ và đối thoại tại doanh nghiệp. Hơn 23.000 đơn vị, doanh nghiệp xây dựng được QCDC mới, sửa đổi, bổ sung trên 24.000 quy chế hiện hành, hơn 9.000 cuộc đối thoại định kỳ và hơn 400 cuộc đối thoại đột xuất được tổ chức. Thông qua các cuộc đối thoại, những vướng mắc, khó khăn, bức xúc của doanh nghiệp và NLĐ đã được tập trung giải quyết. Theo khảo sát của Tổng LĐLĐ năm 2019, có tới 85,6% công nhân trả lời cho biết trong các công ty TNHH có tiến hành các cuộc đối thoại, trong khi đó tại các doanh nghiệp FDI có tới 89,4% số người được hỏi khẳng định doanh nghiệp của mình có tiến hành đối thoại. Như vậy, không chỉ NSDLĐ mà ngay bản thân những NLĐ cũng nhận thức được tầm quan trọng của việc đối thoại tại doanh nghiệp.

Có nhiều hình thức ĐTTNLV đã được triển khai như Giám đốc gặp gỡ NLĐ tại nhà máy khoảng 30 phút vào ngày đầu tháng để trao đổi thông tin, giải quyết những yêu cầu từ phía tập thể lao động, hoặc Giám đốc có những yêu cầu về công việc mà NLĐ có trách nhiệm phải làm... Những cuộc tiếp xúc như vậy rất có lợi trong điều hành, quản lý; NLĐ thấy phấn khởi khi mọi vướng mắc đã được người có trách nhiệm hiểu và giải quyết thấu tình, đạt lý. Ngoài ra, còn rất nhiều hình thức thông tin cho NLĐ bằng bảng tin hoặc hướng dẫn nhân sự; sử dụng các ấn phẩm (ví dụ: báo tường, tạp chí, bản tin, tờ rơi), bảng thông báo, báo cáo hằng năm hoặc báo cáo tài chính được trình bày dưới dạng dễ hiểu cho NLĐ, thư gửi NLĐ qua zalo, facebook; triển lãm; có các cơ chế để NLĐ đề xuất và bày tỏ ý kiến về các vấn đề liên quan tới sự vận hành của doanh nghiệp. Việc tổ chức đối thoại định kỳ đã từng bước đi vào nề nếp, các thành viên tham gia đối thoại đã tích cực phát huy vai trò cá nhân để tham gia hoạt động, chia sẻ thông tin, tăng cường sự hiểu biết giữa NSDLĐ và NLĐ; NLĐ được đóng góp ý kiến để xây dựng môi trường lao động ổn định, dung hòa được quyền và lợi ích, phòng ngừa các bất đồng xảy ra; hạn chế và loại trừ nguy cơ dẫn đến tranh chấp lao động làm phá vỡ QHLĐ.

Thực tiễn về đối thoại xã hội trong quan hệ lao động
Bộ luật Lao động năm 2019 quy định bắt buộc doanh nghiệp phải tổ chức đối thoại định kỳ tối thiểu 1 năm 1 lần hoặc “theo yêu cầu của một hoặc các bên”. Trong ảnh, Hội nghị đối thoại giữa lãnh đạo Công ty TNHH Thủy Lợi Thanh Chương (Nghệ An) với người lao động.

Tuy nhiên, việc ĐTTNLV vẫn còn hình thức, không theo đúng trình tự, nội dung hướng dẫn của pháp luật. Cán bộ CĐCS kiêm nhiệm, chưa dành nhiều thời gian cho công tác công đoàn nên tổ chức thực hiện hiệu quả chưa cao. Trong quá trình làm việc, NLĐ thường bị thiếu thông tin. Tại các cuộc đối thoại định kỳ và Hội nghị NLĐ, ý kiến của đại diện NLĐ mới chỉ tập trung vào giải quyết các quyền lợi cho NLĐ thay vì quan tâm đến các giải pháp tham gia quản lý, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp; hoặc khi tham gia vào đối thoại, NLĐ vẫn còn nhút nhát, e dè, chưa dám nêu ý kiến vì sợ bị trù dập hoặc nêu ý kiến nhưng không được giải quyết triệt để.

Vẫn còn doanh nghiệp không xây dựng Quy chế và không bầu các thành viên đại diện tập thể NLĐ tham gia đối thoại, không tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến NLĐ, đề xuất nội dung đối thoại và xây dựng kế hoạch đối thoại; không phân công trách nhiệm cho từng thành viên tổ đối thoại chuẩn bị ý kiến về nội dung đối thoại, nên khi đối thoại không đủ căn cứ để phân tích, giải trình, phản biện nội dung đối thoại. Nếu không phát huy được quyền làm chủ của NLĐ, môi trường dân chủ tại cơ sở, thì hoạt động của tổ chức đại diện NLĐ ở đó coi như không thể hữu hiệu và phát huy cơ chế tốt nhất; NLĐ không phấn khởi, tự tin để cống hiến và sáng tạo; mặt khác NLĐ cũng không có chỗ, có nơi để phát biểu tâm tư, nguyện vọng, đưa ra những đề xuất, kiến nghị để bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của mình.

Công nhận quyền thương lượng tập thể là tiền đề trọng tâm cho ĐTXH và tiến bộ của chương trình nghị sự về việc làm thỏa đáng. Theo quy định tại Điều 170 BLLĐ năm 2019, NLĐ có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn theo quy định của Luật Công đoàn. Bên cạnh đó, Khoản 2 Điều này cho phép NLĐ trong doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và tham gia hoạt động của tổ chức của NLĐ tại doanh nghiệp. BLLĐ 2019 khẳng định các tổ chức đại diện NLĐ đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ trong QHLĐ.

Thực tiễn về đối thoại xã hội trong quan hệ lao động

Doanh nghiệp thông tin đầy đủ, cập nhật tình hình sản xuất kinh doanh trên trang facebook của mình giúp người lao động tin tưởng hơn ở sự minh bạch của doanh nghiệp. Ảnh minh họa.

Tóm lại, việc duy trì tốt ĐTTNLV sẽ tác động tích cực đến mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp, giúp NLĐ yên tâm làm việc, gắn bó với doanh nghiệp, là giải pháp tốt nhất nhằm tháo gỡ những xung đột trong QHLĐ, tránh những hậu quả về tranh chấp lao động và đình công. ĐTXH hiệu quả là cần thiết để đảm bảo rằng các chính sách môi trường, việc làm, chiến lược phát triển là rõ ràng và bền vững.

Tài liệu tham khảo:

  1. Bộ LLĐ 2019.
  2. Bộ LĐ-TB&XH (2018), Báo cáo QHLĐ 2017, 2019. Tài liệu này được sự hỗ trợ của Dự án Khung khổ QHLĐ mới của ILO do Bộ Lao động Hoa kỳ (Dự án NIRF USDOL) và Chính phủ Canada (Dự án NIRF Canada) tài trợ.
  3. Tổ chức Lao động Quốc tế (2013), Đối thoại ba bên cấp quốc gia, Tài liệu hướng dẫn của ILO nhằm cải thiện quản trị.
Công đoàn phát huy “sáng kiến pháp luật” để xây dựng quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ Công đoàn phát huy “sáng kiến pháp luật” để xây dựng quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Tổng LĐLĐ Việt Nam khóa XII, đồng chí Trương Thị Mai - ...

Tăng cường bảo vệ, chăm lo quyền, lợi ích của đoàn viên để hạn chế tranh chấp lao động Tăng cường bảo vệ, chăm lo quyền, lợi ích của đoàn viên để hạn chế tranh chấp lao động

Chiều ngày 01/10, LĐLĐ TPHCM đã tổ chức hội nghị gặp gỡ, trao đổi về tình hình quan hệ lao động 9 tháng đầu năm ...

Xây dựng quan hệ lao động hài hòa nhằm giữ chân người lao động làm việc Xây dựng quan hệ lao động hài hòa nhằm giữ chân người lao động làm việc

Mối quan hệ giữa chủ sử dụng lao động, người lao động, người quản lý, cán bộ công đoàn luôn là vấn đề quan tâm ...

Tin mới hơn

Kinh tế tư nhân phát triển: Công nhân lớn mạnh, công đoàn vững chắc

Kinh tế tư nhân phát triển: Công nhân lớn mạnh, công đoàn vững chắc

Kinh tế tư nhân đang ngày càng thể hiện được vai trò “một động lực quan trọng của nền kinh tế” như tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XII xác định. Tầm quan trọng và hiệu quả của kinh tế tư nhân từ thực tế 40 năm đổi mới của đất nước một lần nữa cho thấy thành phần kinh tế này đang được định vị lại, có một vị trí xứng đáng.
Kinh tế tư nhân và bứt phá thể chế

Kinh tế tư nhân và bứt phá thể chế

Muốn có doanh nghiệp lớn, thì phải có tư duy lớn và thể chế lớn. Một quốc gia muốn phát triển bền vững không thể thiếu khu vực kinh tế tư nhân năng động, sáng tạo và vững mạnh. Khi thể chế mở đường, doanh nhân sẽ tự tin bước tới.
Công đoàn đồng hành cùng kinh tế tư nhân phát triển bền vững

Công đoàn đồng hành cùng kinh tế tư nhân phát triển bền vững

Trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững, khu vực kinh tế tư nhân cần có sự đồng hành, hỗ trợ thiết thực từ các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó tổ chức Công đoàn giữ vai trò không thể thiếu trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi người lao động và thúc đẩy mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.

Tin tức khác

Phát triển kinh tế tư nhân: Cơ hội và thách thức với tổ chức Công đoàn Việt Nam

Phát triển kinh tế tư nhân: Cơ hội và thách thức với tổ chức Công đoàn Việt Nam

Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia. Nhờ vào sự hỗ trợ của các chính sách cải cách và môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi, khu vực này không ngừng mở rộng quy mô, đa dạng hóa lĩnh vực hoạt động và gia tăng đáng kể về số lượng doanh nghiệp.
Học tập suốt đời – Động lực phát triển của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam

Học tập suốt đời – Động lực phát triển của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam

Bài viết “Học tập suốt đời” của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đã khẳng định sâu sắc vai trò của việc học tập không ngừng trong sự phát triển của đất nước, của mỗi cá nhân, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên, công nhân và người lao động. Học tập không chỉ giúp nâng cao tri thức, mà còn là điều kiện tiên quyết để dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới và cống hiến hết mình vì lợi ích chung.

Nêu bật vai trò của công đoàn trong thực hiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy

Việc sắp xếp, tinh giản bộ máy hành chính ở địa phương nhằm khắc phục tình trạng cồng kềnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý.

Gợi mở văn hóa Công đoàn Việt Nam hướng đến 100 năm hình thành và phát triển

95 năm hình thành và phát triển trong những môi trường khác nhau, trong đó có môi trường rất khốc liệt đã tạo nên một công đoàn Việt Nam bản lĩnh, mạnh mẽ, độc đáo. Vì vậy, đúc kết văn hóa tổ chức công đoàn Việt Nam đã đến lúc là việc cần làm. Để cày vỡ vấn đề này, tôi xin nêu một số vấn đề như là hành trang trên con đường phát triển mới, tô thắm bản sắc công đoàn Việt Nam hướng đến kỷ nguyên mới sẽ có nhiều thay đổi nhanh chóng, lớn lao.

Nhiệm vụ trọng tâm đưa Luật Công đoàn (sửa đổi) vào cuộc sống

Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Công đoàn (sửa đổi) - còn gọi là Luật Công đoàn 2024. Từ Luật Công đoàn đầu tiên được ban hành năm 1957, đây là lần thứ tư Quốc hội xem xét sửa đổi Luật Công đoàn. Luật Công đoàn 2024 được ban hành là kết quả của sự nỗ lực toàn hệ thống Công đoàn Việt Nam, đánh dấu bước trưởng thành của tổ chức Công đoàn trong hoạt động xây dựng và tham gia xây dựng chính sách, pháp luật. Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt của tổ chức Công đoàn là cần sớm đưa Luật vào cuộc sống, đáp ứng vọng, sự mong mỏi của đoàn công đoàn, người lao động.
Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng

Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng

Công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên công đoàn, người lao động có vai trò quan trọng đối với việc góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Ý nghĩa của hoạt động tuyên truyền, vận động này còn góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, tích cực lao động, học tập và công tác, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Xem thêm