
Học tập suốt đời – Động lực phát triển của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam |
Hiện nay, kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tạo ra hơn 85% việc làm cho người lao động ngoài khu vực nhà nước. Đồng thời, khu vực này ngày càng thể hiện rõ vai trò trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia.
![]() |
Hội Doanh nhân trẻ Khánh Hòa & Sở Tài chính Khánh Hòa tổ chức chương trình Cà phê doanh nhân quý I/2025. Ảnh: DNT. |
Đây là minh chứng rõ ràng cho vai trò thiết yếu của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Song song với sự phát triển đó, tổ chức Công đoàn Việt Nam – một thành phần quan trọng trong hệ thống chính trị, có chức năng đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động – cũng đang đối mặt với những thay đổi sâu sắc về cơ cấu lao động và quan hệ lao động. Sự gia tăng nhanh chóng của lực lượng lao động trong khu vực tư nhân đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với công đoàn trong việc đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động để đáp ứng hiệu quả hơn nhu cầu của người lao động trong bối cảnh mới.
Kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Là khu vực do cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân sở hữu và điều hành vì mục tiêu lợi nhuận, trong khuôn khổ pháp luật. Năm 2023, kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 42% GDP và tạo hơn 85% việc làm cả nước. Gần 98% doanh nghiệp thuộc khu vực này có quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Tuy có khả năng linh hoạt, thích nghi nhanh với thị trường, nhưng còn hạn chế về công nghệ, năng suất lao động và đổi mới sáng tạo.
Vai trò của công đoàn trong khu vực tư nhân
Công đoàn bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động qua đàm phán về tiền lương, điều kiện làm việc, thời gian nghỉ ngơi. Đồng thời, tuyên truyền pháp luật, nâng cao ý thức tổ chức và trách nhiệm công dân. Công đoàn giúp gắn kết người lao động với doanh nghiệp, tạo môi trường lao động ổn định, hạn chế đình công tự phát. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân có công đoàn còn thấp, chỉ khoảng 35% vào năm 2023.
Cơ sở pháp lý Luật Công đoàn quy định vai trò đại diện, bảo vệ quyền lợi người lao động; cho phép thành lập công đoàn tại doanh nghiệp tư nhân. Bộ luật Lao động (2019): Thừa nhận quyền tự do liên kết; quy định về đối thoại, thỏa ước lao động tập thể; cho phép tổ chức đại diện khác ngoài Tổng Liên đoàn. Nghị định 98/2020/NĐ-CP: Hướng dẫn thực hiện các quy định về đại diện người lao động và thương lượng tập thể. Những quy định này tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động công đoàn trong khu vực tư nhân, phù hợp xu thế hội nhập và cam kết quốc tế.
Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Tăng trưởng khu vực tư nhân cuối năm 2023, Việt Nam có khoảng 900.000 doanh nghiệp, hơn 97% là doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế tư nhân đóng góp 41-42% GDP, tăng nhẹ so với giai đoạn 2015-2020 (40%) nhưng chưa đạt mục tiêu 50-60% vào năm 2030. Chiếm khoảng 45% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tạo ra 85% việc làm trong doanh nghiệp, với hơn 13 triệu lao động thường xuyên.
Ngành nghề nổi bật và xu hướng lao động ngành phát triển mạnh: chế biến - chế tạo (dệt may, điện tử), thương mại điện tử, logistics, dịch vụ, công nghệ thông tin. Lao động trẻ, năng động, thích ứng môi trường linh hoạt được ưa chuộng. Nhu cầu tăng ở các ngành kỹ thuật số, phần mềm, marketing và lao động phổ thông tại các khu công nghiệp.
Đặc điểm lao động tư nhân chủ yếu trong độ tuổi 20-35, có sức khỏe, tinh thần học hỏi. Trình độ không đồng đều, lao động kỹ năng cao còn ít, tập trung ở đô thị. Khoảng 70% là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo. Thu nhập bấp bênh, thiếu bảo hiểm xã hội/y tế. 30-35% lao động không có hợp đồng chính thức, thiếu ổn định.
Cơ hội của tổ chức Công đoàn Việt Nam khi kinh tế tư nhân phát triển
Mở rộng phạm vi hoạt động và phát triển đoàn viên kinh tế tư nhân đóng góp 42% GDP và sử dụng 85% lao động (năm 2023), là thị trường lớn để Công đoàn mở rộng ảnh hưởng. Việt Nam có hơn 860.000 doanh nghiệp tư nhân, đa số là nhỏ và vừa – phù hợp để triển khai mô hình công đoàn linh hoạt. Luật Công đoàn sửa đổi (2024) tạo điều kiện thuận lợi để người lao động khu vực tư nhân gia nhập công đoàn. Cam kết quốc tế như CPTPP, EVFTA thúc đẩy quyền lập hội, mở rộng cơ hội cho Công đoàn trong khối FDI và tư nhân.
Tăng cường vai trò đại diện, bảo vệ người lao động. Gia tăng đình công và tranh chấp lao động là cơ hội để công đoàn khẳng định vai trò thương lượng, bảo vệ quyền lợi. Công đoàn có thể hỗ trợ đào tạo lại người lao động trước tác động của chuyển đổi số, tự động hóa. Doanh nghiệp chịu áp lực tuân thủ tiêu chuẩn lao động quốc tế, tạo điều kiện cho công đoàn giám sát và bảo vệ quyền lợi. Xu hướng minh bạch, CSR giúp công đoàn dễ dàng phối hợp với doanh nghiệp cải thiện môi trường làm việc.
Đổi mới phương thức hoạt động và nâng cao năng lực. Yêu cầu hội nhập, số hóa, và kỳ vọng mới đòi hỏi công đoàn chuyển từ mô hình hành chính sang phục vụ, lấy người lao động làm trung tâm. Ứng dụng “Công đoàn Việt” giúp kết nối, quản lý đoàn viên hiệu quả, tăng minh bạch và giảm thủ tục hành chính. Nâng cao uy tín công đoàn trong thời đại số.
Tham gia thương lượng tập thể, nâng cao phúc lợi. Công đoàn là đại diện chính thức của người lao động trong thương lượng tập thể. Năm 2023 có trên 1.000 cuộc thương lượng, 28% thỏa ước có điều khoản có lợi hơn luật định (phụ cấp, hỗ trợ con nhỏ, nâng lương...). Góp phần nâng cao đời sống, duy trì quan hệ lao động ổn định, giữ chân lao động có tay nghề.
Những thách thức đối với tổ chức Công đoàn
Khó thành lập công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp tư nhân, chỉ khoảng 35% doanh nghiệp ngoài nhà nước có công đoàn (cuối 2023). Doanh nghiệp nhỏ ngại chi phí, lo mất kiểm soát. Một số chủ doanh nghiệp cản trở thành lập công đoàn. Thiếu cơ chế pháp lý và giám sát hiệu quả.
Người lao động thiếu tin tưởng vào công đoàn, chỉ 42% lao động tin công đoàn sẽ bảo vệ họ khi xảy ra tranh chấp. Lo bị phân biệt đối xử nếu tham gia công đoàn. Nhiều chủ doanh nghiệp chưa hiểu đúng vai trò hỗ trợ của công đoàn.
Năng lực cán bộ công đoàn còn hạn chế, thiếu kỹ năng đàm phán, hiểu biết pháp luật lao động. Phần lớn cán bộ xuất thân từ khu vực nhà nước, khó thích nghi với môi trường tư nhân. Thiếu kinh phí và nhân sự chuyên trách.
Cạnh tranh với tổ chức đại diện lao động khác (theo Bộ luật Lao động 2019). Người lao động có quyền lập tổ chức đại diện khác, không bắt buộc gia nhập Công đoàn Việt Nam. Chỉ 60% doanh nghiệp có công đoàn (năm 2023), giảm so với 2020. Công đoàn đối mặt nguy cơ mất vai trò đại diện nếu không cải thiện hiệu quả hoạt động.
Thiếu cơ chế phối hợp với chính quyền và doanh nghiệp chỉ 10-15% doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có công đoàn hoạt động hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp xem công đoàn là “bên ngoài”, không hợp tác. Công đoàn địa phương thiếu thông tin, bị động trong giám sát và bảo vệ quyền lợi người lao động.
Một số giải pháp đề xuất
Một là, tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò công đoàn trong khu vực tư nhân
Hiện nay, tỷ lệ người lao động trong khu vực tư nhân hiểu đúng vai trò của công đoàn còn thấp. Theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2023), chỉ khoảng 45% người lao động trong khu vực này nhận thức rõ về chức năng bảo vệ quyền lợi của công đoàn. Sự thiếu hiểu biết khiến nhiều người không tham gia hoặc tham gia nhưng thụ động, không phát huy được sức mạnh tập thể. Do đó, cần tăng cường các hình thức tuyên truyền trực quan, đa nền tảng (mạng xã hội, truyền hình, tờ rơi, hội thảo tại chỗ). Có thể hợp tác với doanh nghiệp để tổ chức các buổi tuyên truyền lồng ghép trong giờ làm việc, giúp người lao động dễ tiếp cận hơn. Kinh nghiệm từ một số địa phương như Bình Dương, nơi có nhiều khu công nghiệp, cho thấy sau khi tăng cường tuyên truyền, tỷ lệ công nhân tham gia công đoàn đã tăng từ 60% lên 75% trong vòng 2 năm (2021–2023).
![]() |
Tọa đàm "Giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân” do Báo Người Lao Động tổ chức. Ảnh: NLĐ. |
Hai là, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn có kỹ năng thương lượng, đối thoại
Theo thống kê của Viện Công nhân và Công đoàn (2022), chỉ khoảng 30% cán bộ công đoàn cấp cơ sở được đào tạo bài bản về kỹ năng đàm phán, đối thoại. Trong bối cảnh doanh nghiệp tư nhân ngày càng đa dạng và phức tạp, cán bộ công đoàn cần được trang bị kiến thức pháp luật lao động, kỹ năng giao tiếp, thương lượng tập thể. Cần xây dựng các chương trình đào tạo ngắn hạn, thực hành thực tế, có sự tham gia của chuyên gia pháp lý và các nhà đàm phán chuyên nghiệp. Có thể tổ chức các lớp huấn luyện trực tuyến để tăng khả năng tiếp cận, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Một mô hình hiệu quả là tại TP. Hồ Chí Minh, từ năm 2022, Liên đoàn Lao động tổ chức định kỳ các lớp đào tạo kỹ năng đàm phán, giúp tỷ lệ thành công của các cuộc thương lượng tăng từ 55% lên 80% vào cuối năm 2023.
Ba là, cải tiến nội dung và phương thức hoạt động công đoàn theo hướng linh hoạt, thiết thực
Nhiều hoạt động công đoàn hiện nay còn hình thức, chưa sát với nhu cầu của người lao động. Một khảo sát năm 2023 tại 200 doanh nghiệp ở Hà Nội cho thấy, gần 60% người lao động cảm thấy các hoạt động công đoàn “ít ý nghĩa” đối với họ. Cần đổi mới hoạt động theo hướng linh hoạt, gắn với đời sống thực tế: tổ chức các hội chợ phúc lợi, ngày hội việc làm, tư vấn pháp luật di động, hỗ trợ tài chính khẩn cấp. Đưa công nghệ số vào hoạt động công đoàn ứng dụng quản lý hội viên, phản ánh ý kiến qua điện thoại thông minh, chatbot tư vấn pháp luật. Cũng cần linh hoạt về thời gian tổ chức hoạt động để phù hợp với ca kíp làm việc. Ví dụ: tổ chức sinh hoạt công đoàn trực tuyến ngoài giờ hành chính. Nhờ cải tiến hoạt động, Công đoàn Khu công nghiệp Thăng Long (Hà Nội) đã tăng tỷ lệ hội viên tham gia hoạt động thường xuyên từ 38% năm 2021 lên 62% năm 2023.
Bốn là, xây dựng mô hình công đoàn phù hợp với đặc điểm doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa
Tính đặc thù của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) theo Tổng cục Thống kê (2023), DNNVV chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, phần lớn có quy mô lao động dưới 50 người, vốn hạn chế, tính chất hoạt động linh hoạt, không ổn định lâu dài. Hạn chế trong tham gia công đoàn theo Liên đoàn Lao động Việt Nam (LĐLĐVN), chỉ khoảng 20% DNNVV có tổ chức Công đoàn, cho thấy sự thiếu phù hợp của mô hình công đoàn hiện tại đối với khối doanh nghiệp này. Do vậy, cần thiết kế mô hình công đoàn “linh hoạt” (có thể hoạt động theo cụm ngành hoặc cụm địa lý). Cho phép tổ chức công đoàn ngoài doanh nghiệp (ví dụ: trung tâm hỗ trợ công đoàn khu công nghiệp). Áp dụng mô hình “liên kết mềm”, nơi đại diện công đoàn có thể hoạt động bán thời gian hoặc theo nhóm ngành nghề. Tại TP.HCM (2022), trong số 270.000 DNNVV, chỉ gần 15.000 doanh nghiệp có công đoàn cơ sở (≈5,5%) – nguồn: LĐLĐ TP.HCM.
Năm là, đề xuất chính sách, cơ chế pháp lý thuận lợi hơn để thành lập công đoàn cơ sở
Vướng mắc hiện nay quy trình thành lập công đoàn còn phức tạp, cần sự đồng thuận từ phía chủ doanh nghiệp – điều này khó thực hiện tại DNNVV. Thiếu cơ chế bảo vệ người lao động khi đứng ra thành lập công đoàn – dễ bị gây áp lực hoặc sa thải. Cần đơn giản hóa thủ tục thành lập công đoàn (cho phép đăng ký trực tuyến, rút ngắn thời gian phê duyệt). Có quy định pháp luật rõ ràng bảo vệ người khởi xướng công đoàn. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp có công đoàn (ưu đãi thuế, đánh giá CSR…). Báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2023) cho thấy có đến 40% doanh nghiệp không ủng hộ việc thành lập công đoàn, chủ yếu do lo ngại bị kiểm soát hoặc tăng chi phí hoạt động. Chỉ 3% doanh nghiệp nhận được ưu đãi hay hỗ trợ từ chính quyền khi có công đoàn cơ sở.
Kinh tế tư nhân đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam, đóng góp lớn vào GDP và tạo ra phần lớn việc làm cho xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ này đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với tổ chức Công đoàn Việt Nam trong việc đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao năng lực và mở rộng phạm vi ảnh hưởng để bảo vệ quyền lợi người lao động hiệu quả hơn. Mặc dù còn nhiều thách thức, nhưng với hành lang pháp lý thuận lợi và các giải pháp phù hợp, Công đoàn hoàn toàn có thể phát huy vai trò đại diện tích cực trong khu vực kinh tế tư nhân, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ.
Tài liệu tham khảo
1. Tổng cục Thống kê. (2023). Niên giám thống kê Việt Nam năm 2023. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
2. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. (2023). Báo cáo tổng kết hoạt động công đoàn trong khu vực kinh tế tư nhân. Hà Nội.
3. Viện Công nhân và Công đoàn. (2022). Khảo sát năng lực cán bộ công đoàn tại các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Hà Nội.
4. Bộ luật Lao động. (2019). Luật số 45/2019/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2019. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động – Xã hội.
5. Luật Công đoàn. (2012). Luật số 12/2012/QH13. Hà Nội: Văn phòng Quốc hội.
6. Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ: Quy định về tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở trong thương lượng tập thể và đối thoại tại nơi làm việc.
7. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). (2018). Cam kết về lao động và quyền lập hội trong doanh nghiệp tư nhân.
8. Bộ Công Thương. (2023). Báo cáo tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam. Hà Nội.
9. Liên đoàn Lao động TP. Hồ Chí Minh. (2022–2023). Báo cáo tổng kết chương trình đào tạo cán bộ công đoàn tại doanh nghiệp nhỏ và vừa.
10. Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Dương. (2021–2023). Thống kê kết quả tuyên truyền nâng cao nhận thức người lao động về vai trò công đoàn.
![]() Năm 2024 đánh dấu sự phục hồi và tăng trưởng ấn tượng của kinh tế Việt Nam, bất chấp những thách thức toàn cầu. Với ... |
![]() 95 năm hình thành và phát triển trong những môi trường khác nhau, trong đó có môi trường rất khốc liệt đã tạo nên một ... |
![]() Hội nghị Hội đồng Chủ tịch Liên hiệp Công đoàn Thế giới (WFTU) đã chính thức khai mạc tại Hà Nội sáng 4/3. Trong khuôn ... |
![]() Bài viết “Học tập suốt đời” của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đã ... |
Tin mới hơn

Có một mái nhà chung đầy yêu thương

Đột phá khoa học công nghệ, chuyển đổi số và sứ mệnh mới của tổ chức Công đoàn

Công đoàn: “Mạch máu” dẫn truyền trách nhiệm trong “guồng quay” lợi nhuận
Tin tức khác

Công đoàn “thần tốc" phát triển đoàn viên và bài học kinh nghiệm quý giá

Công đoàn – “nền tảng đạo lý” trong kiến tạo doanh nghiệp có trách nhiệm

Kinh tế tư nhân phát triển: Công nhân lớn mạnh, công đoàn vững chắc

Chuyển đổi số trong công đoàn: Đòi hỏi sống còn, không chỉ là khẩu hiệu

Quan hệ lao động hài hoà: “Nền móng” cho “đòn bẩy” kinh tế tư nhân
