Nghiên cứu

“Kiệt sức nghề nghiệp” thành bệnh nghề nghiệp - bao giờ?

TS. PHẠM THỊ THU LAN - Viện Công nhân và Công đoàn
Áp lực và căng thẳng tăng cao đối với nhân viên y tế (NVYT) trong phòng, chống dịch Covid-19 thời gian qua cho thấy, đã đến lúc cần coi đây là một bệnh nghề nghiệp (BNN) của họ. Điều này không phải là một phát kiến mới mẻ, bởi đây là một loại BNN đã được phát hiện, định danh từ lâu trên thế giới.
“Kiệt sức nghề nghiệp” thành bệnh nghề nghiệp - bao giờ?
“Kiệt sức nghề nghiệp” thành bệnh nghề nghiệp - bao giờ?. Ảnh minh họa.

“Kiệt sức nghề nghiệp”

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), “Kiệt sức nghề nghiệp” (Occupational burnout) là một hội chứng căng thẳng mạn tính liên quan đến công việc, với triệu chứng đặc trưng là cảm giác cạn kiệt năng lượng hoặc kiệt sức, cảm giác tiêu cực hoặc hoài nghi liên quan đến công việc, từ đó làm giảm hiệu quả nghề nghiệp.

Năm 1974, Herbert Freudenberger, một nhà tâm lý học người Mỹ lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ "kiệt sức" trong công bố trên một tạp chí khoa học nghiên cứu về hội chứng này. Nghiên cứu của ông dựa trên quan sát về các nhân viên tình nguyện tại một phòng khám miễn phí dành cho người nghiện ma túy. Theo ông, tình trạng kiệt sức là một loạt các triệu chứng bao gồm kiệt sức do yêu cầu quá mức của công việc cũng như các triệu chứng thể chất như đau đầu và mất ngủ, "dễ nổi nóng" và suy nghĩ khép kín. Ông quan sát những người làm việc kiệt sức biểu hiện ở vẻ ngoài, hành động và sự chán nản. Sau khi nghiên cứu được xuất bản, sự quan tâm đến tình trạng kiệt sức nghề nghiệp ngày càng tăng.

Năm 1981, Christina Maslach, một nhà tâm lý học xã hội người Mỹ mô tả sự kiệt sức liên quan tới cảm xúc suy giảm xuống tột bậc trong đối xử với khách hàng, sinh viên hoặc đồng nghiệp bằng sự xa cách hoặc hoài nghi, và giảm cảm giác về thành tích cá nhân liên quan đến công việc. Maslach và Susan Jackson cũng xuất bản một công cụ đánh giá tình trạng kiệt sức, tập trung vào các nghề dịch vụ như giáo viên, nhân viên xã hội. Cho đến nay, công cụ này được điều chỉnh để đánh giá sức khỏe tâm thần trong nhiều ngành nghề khác trên thế giới.

Hiệp hội Y khoa Hoàng gia Hà Lan định nghĩa "kiệt sức" là một dạng phụ của rối loạn điều chỉnh. Ở Hà Lan, tình trạng kiệt sức được đưa vào sổ tay và NVYT được đào tạo về chẩn đoán và điều trị. Ủy ban Y tế và Phúc lợi Quốc gia Thụy Điển đề cập tới suy nhược thần kinh và coi tình trạng này còn nghiêm trọng hơn tình trạng kiệt sức. Những người Thụy Điển bị kiệt sức nặng được coi là bị suy nhược thần kinh, được xếp cùng nhóm với rối loạn điều chỉnh và rối loạn căng thẳng sau chấn thương - là những tình trạng do căng thẳng quá mức gây ra và vẫn kéo dài sau khi các yếu tố gây căng thẳng đã được loại bỏ.

Căng thẳng trong công việc có thể dẫn tới đột tử hay tự tử. Nước Nhật bị ám ảnh bởi căn bệnh Karoshi (đột tử vì làm việc quá sức). Tổng Công đoàn Quốc tế (ITUC) tổng kết: “Ngày nay, bạn không còn treo mình trên giàn giáo, mạo hiểm tính mạng vì công việc, nhưng sự bấp bênh, căng thẳng trong công việc và làm việc quá sức cũng có thể khiến bạn ốm, thậm chí giết chết bạn, với tỷ lệ còn cao hơn nhiều so với tỷ lệ tai nạn lao động”.

“Kiệt sức nghề nghiệp” hiện nay đã được thừa nhận trong danh mục BNN của Đan Mạch, Estonia, Pháp, Hungary, Latvia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Slovakia, Tây Ban Nha, Thụy Điển...

“Kiệt sức nghề nghiệp” thành bệnh nghề nghiệp - bao giờ?
Stress, sang chấn tâm lý, thậm chí trầm cảm và bỏ việc là hậu quả của những áp lực tinh thần mà nhân viên y tế phải chịu đựng trong đại dịch. Trong ảnh: Các bác sĩ Bệnh viện hồi sức Covid-19 (TP. Hồ Chí Minh) đang điều trị bệnh nhân nặng, nguy kịch, tháng 8/2021. Ảnh: Thành Nguyễn.

Covid-19 và căng thẳng nghề nghiệp của NVYT

Kết quả nghiên cứu của Viện Công nhân và Công đoàn về tác động của đại dịch Covid-19 đến NLĐ cho thấy: Trong khi ở đa số các ngành khác, NLĐ bị tác động liên quan tới mất việc, giảm giờ làm việc do giãn việc, nghỉ việc không lương, tạm hoãn hợp đồng lao động,…thì NLĐ ngành Y tế chịu tác động theo chiều ngược lại.

Theo khảo sát của Công đoàn Y tế Việt Nam (CĐYTVN), số giờ làm việc của NVYT tăng trung bình 3,65 giờ/ngày và cường độ làm việc tăng cùng với số lượng ca mắc mới tăng hay số người cách ly, xét nghiệm tăng... Covid-19 khiến cho môi trường làm việc của NVYT vốn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mắc các BNN và phơi nhiễm bệnh tật trở nên không an toàn. Tính đến ngày 19/8/2021, đã có khoảng hơn 2.300 NVYT nhiễm bệnh và

3 người tử vong. Họ không chỉ lo lắng bản thân mắc bệnh mà còn lo sẽ lây nhiễm cho đồng nghiệp, gia đình. "Họ là người áp lực nhất, khi chính mình là những người chiến đấu tuyến đầu lại bị nhiễm bệnh, không thể tiếp tục chăm sóc điều trị cho người bệnh. Nếu cộng đồng, xã hội không đồng cảm, chia sẻ, cảm thông thì những áp lực đó sẽ khiến cho các y bác sĩ bị stress", PGS. TS. Phạm Thanh Bình, Chủ tịch CĐYTVN chia sẻ.

Theo Bộ Y tế, đại dịch Covid-19 khiến 60% NVYT phải làm việc tăng lên đáng kể, trong đó 40% bị suy giảm về sức khỏe thể chất, 70% bị lo lắng và trầm cảm. Căng thẳng đã khiến nhiều NVYT xin nghỉ việc. Chỉ riêng ở TP. Hồ Chí Minh trong đợt dịch thứ tư, có khoảng 1.000 NVYT xin nghỉ việc. PGS. TS. Hoàng Bùi Hải, Phó Giám đốc Bệnh viện điều trị Covid-19 Hà Nội, Trưởng Khoa cấp cứu Bệnh viện Đại học Y Hà Nội chia sẻ: "Lý do nghỉ việc không hẳn là do thu nhập giảm mà do áp lực công việc kéo dài, vượt qua sức chịu đựng thì họ cần được nghỉ ngơi".

Thời điểm làm việc thường xuyên trái với quy luật sinh học cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe thể chất và tinh thần của NVYT, đặc biệt đối với phụ nữ. 63% NVYT cho biết ngoài việc chống dịch, họ vẫn phải lo lắng việc nhà cho gia đình và người thân. Nhiều cán bộ làm việc trong khu cách ly khi người thân mất không thể về được.

“Kiệt sức nghề nghiệp” thành bệnh nghề nghiệp - bao giờ?
Cán bộ Công đoàn ngành Y tế Bắc Giang tặng quà cho lực lượng y, bác sĩ tuyến đầu phòng, chống dịch. Ảnh: Bích Hợp.

Không chỉ gia tăng áp lực, trong công việc hằng ngày, NVYT cũng đối mặt với những tình huống căng thẳng không tránh khỏi. Nhiều y, bác sĩ và NVYT ở các khoa cấp cứu bị người nhà bệnh nhân xúc phạm, hành hung khi người thân của họ bị bệnh nặng, tính mạng bị đe dọa, khiến họ hoảng hốt, rối trí nên bức xúc và không kiểm soát được bản thân.

NVYT làm việc trong môi trường thường xuyên chứng kiến sự ốm yếu, đau đớn, mệt mỏi của bệnh nhân, thậm chí là chết chóc... phải chịu áp lực tâm lý lớn, mặc dù đã được rèn luyện. "Môi trường làm việc độc hại, mức độ truyền nhiễm, hóa chất, phóng xạ, nóng bức... Thái độ của bệnh nhân, người nhà bệnh nhân, cả về ngôn ngữ và thể chất cũng làm cho áp lực của NVYT tăng cao", PGS. TS. Nguyễn Thanh Hương, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Đào tạo, nguyên Phó Hiệu trưởng, Trường Đại học Y tế Công cộng phân tích.

Sức ép lớn của môi trường làm việc khiến tỉ lệ nhân viên y tế bị stress rất cao. Theo khảo sát của Viện Y học lao động & Vệ sinh môi trường tại một khoa hồi sức cấp cứu, gần 23% số nhân viên bị stress ở mức cao, 42% bị stress ở mức trung bình. Hơn 20% số điều dưỡng cho biết họ thường xuyên có các biểu hiện nhức đầu, cảm giác lo âu, căng thẳng tinh thần, giấc ngủ bất thường…Các yếu tố gây stress liên quan tới phản ứng của bệnh nhân và người nhà, làm việc quá nhiều giờ, áp lực công việc cao, điều kiện làm việc thiếu thốn máy móc, trang thiết bị, đông người, ồn ào, tiếp xúc nhiều mầm bệnh, dễ bị thương tích, thu nhập chưa thỏa đáng và công việc ít có cơ hội thăng tiến…Khảo sát của Viện Chiến lược và Chính sách y tế (Bộ Y tế) cũng khẳng định áp lực công việc cao và căng thẳng qua trả lời của 87,4% NVYT. Trong dịch bệnh Covid-19, căng thẳng và áp lực tăng gấp nhiều lần.

“Kiệt sức nghề nghiệp” thành bệnh nghề nghiệp - bao giờ?
Cán bộ y tế phường Tương Mai (Hoàng Mai, TP. Hà Nội) làm việc không phút nghỉ ngơi khi dịch bệnh bùng phát ở TP. Hà Nội, tháng 3/2022. Ảnh: Đình Hiếu.

Vai trò của công đoàn

Là tổ chức đại diện cho NLĐ, Công đoàn Việt Nam, đặc biệt là CĐYTVN đã tổ chức nhiều hoạt động chăm lo cho cán bộ, NVYT, đoàn viên công đoàn tham gia phòng, chống dịch Covid-19 như: Tuyên truyền phòng, chống dịch; triển khai xét nghiệm định kỳ và tiêm vắc xin cho cán bộ, NVYT; thành lập Quỹ phòng, chống Covid-19; đề xuất, kiến nghị Bộ Y tế tiêm vắc xin mũi 3 cho cán bộ, NVYT tham gia chống dịch; đề xuất, đề nghị Bộ LĐ-TB&XH, Chính phủ có chế độ chính sách phong liệt sĩ đối với cán bộ, NVYT hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ; kiến nghị Chính phủ đảm bảo lương cho cán bộ, NVYT ở đơn vị tự chủ và đầu tư trang thiết bị cho y tế tuyến xã, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh để chăm sóc sức khỏe cho người dân. Nhiều chế độ, chính sách được ban hành kịp thời nhằm hỗ trợ, động viên tinh thần cho y, bác sĩ, NVYT như: Nghị quyết số 16/NQ-CP về chi phí cách ly y tế, khám chữa bệnh và một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch; Nghị quyết số 58/NQ-CP, trong đó hướng dẫn chế độ chống dịch cho các tình nguyện viên (học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, học sinh các trường đào tạo hệ trung cấp khối ngành sức khỏe, người có chuyên môn y tế không hưởng lương từ ngân sách Nhà nước tham gia hỗ trợ chống dịch); Nghị quyết số 58/NQ-CP về chế độ phụ cấp tiêm chủng…

Để bảo vệ sức khỏe, việc làm cho cán bộ, NVYT - ngành dịch vụ thiết yếu ở Việt Nam trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 chưa có dấu hiệu dừng và tỷ lệ ca nhiễm mới tăng nhanh mỗi ngày - Công đoàn Việt Nam cần nghiên cứu và đề xuất đưa hiện tượng “Kiệt sức nghề nghiệp” vào danh mục bệnh nghề nghiệp cho NVYT phù hợp với tiêu chuẩn chung trên thế giới.

Nhân viên y tế tại doanh nghiệp và nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp Nhân viên y tế tại doanh nghiệp và nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp

Theo Điều 73, Luật An toàn, vệ sinh lao động (ATVSLĐ), nhân viên y tế là người làm công tác y tế tại các doanh ...

Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp chi trả như thế nào? Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp chi trả như thế nào?

Bạn Nguyễn Chí Tâm (Hà Nội) hỏi: Khi bị tai nạn lao động (TNLĐ), NLĐ được Quỹ Bảo hiểm TNLĐ, bệnh nghề nghiệp (BNN) chi ...

Đề xuất đưa Covid-19 vào danh mục bệnh nghề nghiệp Đề xuất đưa Covid-19 vào danh mục bệnh nghề nghiệp

Bộ Y tế đang dự thảo thông tư bổ sung bệnh Covid-19 vào danh mục bệnh nghề nghiệp được hưởng Bảo hiểm xã hội (BHXH) ...

Tin mới hơn

Kinh tế tư nhân phát triển: Công nhân lớn mạnh, công đoàn vững chắc

Kinh tế tư nhân phát triển: Công nhân lớn mạnh, công đoàn vững chắc

Kinh tế tư nhân đang ngày càng thể hiện được vai trò “một động lực quan trọng của nền kinh tế” như tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XII xác định. Tầm quan trọng và hiệu quả của kinh tế tư nhân từ thực tế 40 năm đổi mới của đất nước một lần nữa cho thấy thành phần kinh tế này đang được định vị lại, có một vị trí xứng đáng.
Kinh tế tư nhân và bứt phá thể chế

Kinh tế tư nhân và bứt phá thể chế

Muốn có doanh nghiệp lớn, thì phải có tư duy lớn và thể chế lớn. Một quốc gia muốn phát triển bền vững không thể thiếu khu vực kinh tế tư nhân năng động, sáng tạo và vững mạnh. Khi thể chế mở đường, doanh nhân sẽ tự tin bước tới.
Công đoàn đồng hành cùng kinh tế tư nhân phát triển bền vững

Công đoàn đồng hành cùng kinh tế tư nhân phát triển bền vững

Trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững, khu vực kinh tế tư nhân cần có sự đồng hành, hỗ trợ thiết thực từ các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó tổ chức Công đoàn giữ vai trò không thể thiếu trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi người lao động và thúc đẩy mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.

Tin tức khác

Phát triển kinh tế tư nhân: Cơ hội và thách thức với tổ chức Công đoàn Việt Nam

Phát triển kinh tế tư nhân: Cơ hội và thách thức với tổ chức Công đoàn Việt Nam

Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia. Nhờ vào sự hỗ trợ của các chính sách cải cách và môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi, khu vực này không ngừng mở rộng quy mô, đa dạng hóa lĩnh vực hoạt động và gia tăng đáng kể về số lượng doanh nghiệp.
Học tập suốt đời – Động lực phát triển của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam

Học tập suốt đời – Động lực phát triển của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam

Bài viết “Học tập suốt đời” của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đã khẳng định sâu sắc vai trò của việc học tập không ngừng trong sự phát triển của đất nước, của mỗi cá nhân, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên, công nhân và người lao động. Học tập không chỉ giúp nâng cao tri thức, mà còn là điều kiện tiên quyết để dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới và cống hiến hết mình vì lợi ích chung.

Nêu bật vai trò của công đoàn trong thực hiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy

Việc sắp xếp, tinh giản bộ máy hành chính ở địa phương nhằm khắc phục tình trạng cồng kềnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý.

Gợi mở văn hóa Công đoàn Việt Nam hướng đến 100 năm hình thành và phát triển

95 năm hình thành và phát triển trong những môi trường khác nhau, trong đó có môi trường rất khốc liệt đã tạo nên một công đoàn Việt Nam bản lĩnh, mạnh mẽ, độc đáo. Vì vậy, đúc kết văn hóa tổ chức công đoàn Việt Nam đã đến lúc là việc cần làm. Để cày vỡ vấn đề này, tôi xin nêu một số vấn đề như là hành trang trên con đường phát triển mới, tô thắm bản sắc công đoàn Việt Nam hướng đến kỷ nguyên mới sẽ có nhiều thay đổi nhanh chóng, lớn lao.

Nhiệm vụ trọng tâm đưa Luật Công đoàn (sửa đổi) vào cuộc sống

Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Công đoàn (sửa đổi) - còn gọi là Luật Công đoàn 2024. Từ Luật Công đoàn đầu tiên được ban hành năm 1957, đây là lần thứ tư Quốc hội xem xét sửa đổi Luật Công đoàn. Luật Công đoàn 2024 được ban hành là kết quả của sự nỗ lực toàn hệ thống Công đoàn Việt Nam, đánh dấu bước trưởng thành của tổ chức Công đoàn trong hoạt động xây dựng và tham gia xây dựng chính sách, pháp luật. Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt của tổ chức Công đoàn là cần sớm đưa Luật vào cuộc sống, đáp ứng vọng, sự mong mỏi của đoàn công đoàn, người lao động.
Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng

Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng

Công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên công đoàn, người lao động có vai trò quan trọng đối với việc góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Ý nghĩa của hoạt động tuyên truyền, vận động này còn góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, tích cực lao động, học tập và công tác, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Xem thêm