
Luật Công đoàn 2024: Linh hoạt chính sách đi kèm minh bạch và công bằng |
Về mặt chính sách, quy định này thể hiện sự chuyển biến trong tư duy quản trị nhà nước, khi đặt doanh nghiệp vào trung tâm hỗ trợ thay vì chỉ là đối tượng thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, chính điểm mở trong khái niệm “khó khăn” lại đang đặt ra những bài toán phức tạp về triển khai thực tế.
![]() |
Khái niệm “khó khăn do bất khả kháng” và “không có khả năng đóng” cần được cụ thể hóa bằng bộ tiêu chí đánh giá định lượng, minh bạch và có thể kiểm chứng. Ảnh minh hoạ |
Mặc dù đánh giá đây là một động thái chia sẻ và thấu hiểu từ phía nhà nước, nhưng nhiều doanh nghiệp bày tỏ mong muốn các khái niệm này cần được hướng dẫn cụ thể và chi tiết hơn để đảm bảo việc thực hiện đúng đắn và tránh những rủi ro pháp lý không đáng có.
Không tạo “cánh cửa mở" cho hành vi né tránh
Ông Trần Văn An, Giám đốc một doanh nghiệp sản xuất tại Hà Nội cho biết khái niệm “khó khăn” như thế nào thì được chấp nhận? Hiện nay chưa có tiêu chí cụ thể nên khi làm hồ sơ rất lúng túng, thậm chí sợ bị đánh giá là đang cố tình né tránh nghĩa vụ.
Do đó, ông An đề xuất cần có bảng tiêu chí rõ ràng và thống nhất toàn quốc, giúp doanh nghiệp biết mình có đủ điều kiện hay không, tránh mất thời gian và công sức. Ví dụ, quy định doanh thu giảm từ 30% trở lên so với cùng kỳ, hoặc có từ 3 tháng liên tiếp không phát sinh đơn hàng, hay bị cắt giảm trên 20% lao động. Như vậy mới công bằng và tránh tình trạng xét duyệt cảm tính.
Bà Lê Thị Bình, kế toán trưởng một công ty dịch vụ tại TP. HCM đánh giá bất khả kháng là một khái niệm pháp lý nhưng không phải ai trong doanh nghiệp cũng hiểu rõ. Ví dụ, việc đơn hàng bị huỷ do chiến tranh hay lạm phát có được coi là bất khả kháng không?
Hay bị cắt nguồn cung nguyên vật liệu từ đối tác quốc tế có được chấp nhận? Nếu không làm rõ, mỗi nơi hiểu một cách thì sẽ dẫn tới việc xét duyệt không thống nhất. Bà Bình kiến nghị Nhà nước cần ban hành danh mục các tình huống bất khả kháng điển hình, và cơ chế xác nhận từ cơ quan chuyên ngành để hỗ trợ doanh nghiệp chứng minh.
Bà Bình cũng lo ngại về việc đánh giá “khó khăn do bất khả kháng” sẽ mang tính chủ quan. Liệu một đợt thiên tai nhỏ có được coi là bất khả kháng không? Hay mức độ sụt giảm doanh thu bao nhiêu thì được coi là “không có khả năng đóng”? Nếu không có hướng dẫn cụ thể, mỗi doanh nghiệp có thể tự đưa ra cách hiểu riêng, dẫn đến sự không thống nhất trong quá trình thực hiện.
Bà Lê Hồng Hạnh, Giám đốc doanh nghiệp may mặc tại Bắc Giang phân tích,“không có khả năng đóng” nên được hiểu là thực sự không còn dòng tiền để duy trì hoạt động, chứ không phải cứ báo lỗ là được hoãn. Có những doanh nghiệp “lỗ kỹ thuật” nhưng vẫn có khả năng thanh toán. Ngược lại, có doanh nghiệp nhìn báo cáo thì tạm ổn nhưng bên trong đã “cạn sạch tiền”.
Từ đó, bà Hạnh đề xuất nên lấy dữ liệu tài chính và dòng tiền thực tế, như dòng tiền âm, tồn kho tăng đột biến, hoặc doanh nghiệp đang bị ngân hàng cảnh báo nợ quá hạn, làm tiêu chí để đánh giá.
![]() |
Việc thiếu tiêu chí cụ thể dễ tạo ra sự tùy tiện trong xét duyệt và gây khó cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý. Ảnh minh hoạ |
Để đảm bảo tính minh bạch và dễ thực hiện của quy định tại Điều 30, nhiều doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp đã đưa ra một số đề xuất về các tiêu chí có thể được xem xét để cụ thể hóa các khái niệm “khó khăn do bất khả kháng” và “không có khả năng đóng” như sau.
Đối với “khó khăn do bất khả kháng”, cần liệt kê cụ thể các trường hợp được coi là bất khả kháng. Ví dụ, thiên tai được công bố ở mức độ nào, dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm theo công bố của cơ quan có thẩm quyền, hỏa hoạn gây thiệt hại nghiêm trọng, thay đổi chính sách pháp luật có tác động lớn và đột ngột đến hoạt động sản xuất kinh doanh...
Yêu cầu có văn bản xác nhận hoặc thông báo chính thức từ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về sự kiện bất khả kháng xảy ra. Đánh giá mức độ thiệt hại do sự kiện bất khả kháng gây ra đối với doanh nghiệp. Ví dụ, thiệt hại về tài sản, ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh trong một khoảng thời gian nhất định...
Đối với “không có khả năng đóng”, cần có các chỉ số tài chính cụ thể để đánh giá tình trạng khó khăn của doanh nghiệp. Ví dụ, doanh thu sụt giảm bao nhiêu phần trăm so với cùng kỳ trong một khoảng thời gian nhất định, lợi nhuận âm liên tục trong bao nhiêu quý, hệ số thanh toán hiện hành dưới một ngưỡng nhất định, đang trong quá trình tái cơ cấu hoặc giải thể, phá sản...
Yêu cầu doanh nghiệp cung cấp các báo cáo tài chính đã được kiểm toán hoặc các tài liệu chứng minh tình hình tài chính khó khăn. Cần có cơ chế thẩm định khách quan từ các cơ quan có chuyên môn về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Cụ thể khái niệm “khó khăn”
Từ góc độ chính sách, các chuyên gia khẳng định việc không cụ thể hóa hai khái niệm nói trên là lỗ hổng kỹ thuật quan trọng, có thể làm giảm đáng kể hiệu lực thi hành của Luật Công đoàn 2024.
![]() |
Nếu không cụ thể hóa, sẽ dẫn đến tình trạng doanh nghiệp vẫn hoạt động tốt nhưng vẫn kê khai “khó khăn”, gây bất công với những đơn vị thực sự cần hỗ trợ. Ảnh minh hoạ |
Đơn cử, “khó khăn do bất khả kháng” là một khái niệm mang tính pháp lý nhưng lại rất dễ bị hiểu theo nhiều cách khác nhau nếu không có tiêu chí định lượng đi kèm. Trong khi đó, “không có khả năng đóng” là một thuật ngữ tài chính nhưng lại đang được sử dụng khá cảm tính trong chính sách. Cả hai khái niệm này nếu không được làm rõ bằng các chỉ số cụ thể sẽ gây khó khăn trong xét duyệt và dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng.
Theo TS. Nguyễn Thị Lan Hương, chuyên gia về chính sách lao động khó khăn do bất khả kháng và không có khả năng đóng là hai điều kiện rất then chốt, nhưng lại có tính chất định tính cao. Nếu không lượng hóa được bằng các chỉ số cụ thể, việc xét duyệt sẽ mang tính cảm tính và dễ tạo ra bất công trong thực thi.
“Chúng ta không thể chỉ dựa vào văn bản cam kết hoặc báo cáo nội bộ của doanh nghiệp để đánh giá yếu tố bất khả kháng. Khái niệm này cần được định nghĩa theo hướng kết hợp giữa yếu tố khách quan như thiên tai, dịch bệnh, đứt gãy chuỗi cung ứng… và yếu tố định lượng như thiệt hại tài chính cụ thể, sụt giảm lao động, đình trệ sản xuất”, bà Hương nói.
ThS. Lê Hoàng Hải, chuyên gia về pháp luật lao động đánh giá “khó khăn do bất khả kháng” và “không có khả năng đóng” được xem là nền tảng quyết định tính công bằng, khả thi và hiệu quả của quy định cho phép doanh nghiệp tạm dừng đóng kinh phí công đoàn tối đa 12 tháng.
Mặc dù, đây là hai khái niệm mấu chốt, nhưng lại có tính định tính cao và dễ bị lạm dụng nếu không lượng hóa bằng các tiêu chí cụ thể. “Khó khăn do bất khả kháng” cần được xác lập dựa trên sự kiện khách quan như thiên tai, dịch bệnh, biến động chính trị… có xác nhận từ cơ quan chức năng. Còn “không có khả năng đóng” phải là một tình trạng tài chính thực sự, chứ không thể chỉ dựa vào báo cáo lỗ hình thức.
“Không thể để một chính sách quan trọng như tạm dừng nghĩa vụ tài chính lại bị xét duyệt bằng cảm tính. Khái niệm bất khả kháng cần có khung pháp lý cụ thể, liệt kê rõ các tình huống được coi là đủ điều kiện, ví dụ gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, lệnh phong tỏa, cháy nổ bất ngờ… Tất cả phải có bằng chứng xác thực”, ông Hải nói.
ThS. Lê Hoàng Hải đề xuất nên phân tầng mức độ khó khăn thành 3 cấp: nhẹ – vừa – nghiêm trọng, từ đó áp dụng chính sách miễn, giảm hoặc tạm dừng phù hợp thay vì áp dụng một khung duy nhất cho mọi trường hợp.
![]() |
Cần tích hợp hệ thống khai báo điện tử dựa trên dữ liệu tài chính, thuế và lao động để minh bạch hóa quy trình xét duyệt. Ảnh minh hoạ |
Vẫn theo TS. Nguyễn Thị Lan Hương,“không có khả năng đóng” không thể được hiểu đơn giản là lỗ kế toán. Nhiều doanh nghiệp báo lỗ nhưng vẫn có dòng tiền, vẫn duy trì hoạt động sản xuất bình thường. Cái cần được xem xét là khả năng thanh khoản thực tế.
Từ đó, TS. Nguyễn Thị Lan Hương đề xuất một số chỉ số tài chính cần được sử dụng làm căn cứ, như dòng tiền âm liên tục,tỷ lệ nợ phải trả ngắn hạn vượt quá 80% doanh thu, doanh nghiệp bị xếp hạng tín dụng thấp hoặc bị ngân hàng cảnh báo mất khả năng chi trả.
Các chuyên gia đều thống nhất rằng, mục tiêu của Điều 30 là chia sẻ gánh nặng tài chính trong lúc khó khăn, chứ không phải miễn trừ nghĩa vụ. Nếu thiếu tiêu chí minh bạch và hệ thống kiểm soát phù hợp, chính sách dễ bị lợi dụng, không đến được đúng đối tượng, và quan trọng hơn, sẽ làm giảm niềm tin của người lao động vào vai trò của tổ chức công đoàn.
Chính vì vậy, song song với việc triển khai Luật Công đoàn 2024, cần sớm hoàn thiện cơ sở kỹ thuật và thể chế hóa khái niệm “khó khăn” theo hướng định lượng, kiểm chứng và có thể áp dụng thống nhất trên cả nước.
Điều 30 Luật Công đoàn 2024 là một bước tiến đáng ghi nhận trong chính sách lao động, thể hiện tinh thần hỗ trợ doanh nghiệp một cách chủ động. Tuy nhiên, để chính sách không bị biến thành “vùng xám pháp lý” và phát huy được vai trò như kỳ vọng, việc định nghĩa rõ ràng các điều kiện áp dụng là điều bắt buộc.
Chính sách chỉ thực sự hiệu quả khi nó công bằng, minh bạch và được triển khai một cách nhất quán. Và để làm được điều đó, điều trước tiên là phải “đo” được sự khó khăn, thay vì chỉ cảm nhận nó.
![]() Với những sửa đổi đáng chú ý tại Điều 30, Luật Công đoàn năm 2024 đánh dấu bước chuyển quan trọng trong cách thức tiếp ... |
![]() Việc sửa đổi Điều 30 của Luật Công đoàn 2024 cho phép doanh nghiệp được miễn, giảm hoặc tạm dừng đóng kinh phí công đoàn ... |
![]() Một trong những điểm nổi bật của Luật Công đoàn 2024 là quy định tại Điều 30 cho phép doanh nghiệp được tạm dừng đóng ... |
Tin mới hơn

Có một mái nhà chung đầy yêu thương

Đột phá khoa học công nghệ, chuyển đổi số và sứ mệnh mới của tổ chức Công đoàn

Công đoàn: “Mạch máu” dẫn truyền trách nhiệm trong “guồng quay” lợi nhuận
Tin tức khác

Công đoàn “thần tốc" phát triển đoàn viên và bài học kinh nghiệm quý giá

Công đoàn – “nền tảng đạo lý” trong kiến tạo doanh nghiệp có trách nhiệm

Kinh tế tư nhân phát triển: Công nhân lớn mạnh, công đoàn vững chắc

Chuyển đổi số trong công đoàn: Đòi hỏi sống còn, không chỉ là khẩu hiệu

Quan hệ lao động hài hoà: “Nền móng” cho “đòn bẩy” kinh tế tư nhân
