Nghiên cứu

Cần dồn sức lo cho nguồn lực cơ bản của quốc gia

PGS. TS. VŨ QUANG THỌ - Trường Đại học Lương Thế Vinh
Quý II năm 2022, Tổng LĐLĐ Việt Nam tổ chức cuộc khảo sát về tiền lương và thu nhập của người lao động (NLĐ), để phục vụ những đề xuất từ phía NLĐ nhằm tăng lương bảo đảm cuộc sống của họ, trong bối cảnh chúng ta vừa chống dịch Covid-19 vừa ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh. Kết quả cuộc khảo sát không thể không khiến chúng ta suy ngẫm.
Cần dồn sức lo cho nguồn lực cơ bản của quốc gia
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Liên đoàn Lao động Đồng Nai khảo sát tiền lương, thu nhập, đời sống trong công nhân tại Công ty TNHH Fashion Garments 2, chi nhánh huyện Tân Phú. Ảnh: LAN MAI

Khảo sát bao quát, có tính đại diện và tin cậy

Cuộc khảo sát không lớn nhưng bao quát được các vùng lương và tính đại diện khá cao. Tổng số có 2.016 NLĐ được hỏi (không lựa chọn) và trả lời phiếu khảo sát.

Viện Công nhân và Công đoàn là cơ quan trực tiếp liên hệ, phát phiếu và nhận các ý kiến trả lời. Có ba loại hình doanh nghiệp chủ yếu được khảo sát là: Doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân (chủ yếu là các doanh nhân trong nước) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI). Phân bổ phiếu khảo sát theo các loại hình doanh nghiệp vừa kể trên tuần tự là 15,4%; 24,2%; 60,4%; với cơ cấu 4 vùng lương, gồm vùng I: 36,1%; vùng II: 26,6%; vùng III: 20,0% và vùng IV: 15,3%.

Tổng số NLĐ được phân chia theo giới tính là: Nam 39,9%, nữ 60,1%. Độ tuổi bình quân của người được khảo sát là 35,2, người trẻ nhất 17 tuổi; người cao tuổi nhất là 68. Mức thâm niên bình quân trong đời làm công nhân là 8,32 năm. Người thâm niên lâu nhất là 33 năm; người thấp nhất là 1 năm.

NLĐ được khảo sát đang làm trong một số ngành chủ chốt của nền kinh tế thâm dụng lao động, có nghĩa là những ngành nghề chứa đựng số lượng lớn NLĐ mà cuộc sống của họ phụ thuộc rất căn bản vào các quyết định, những dụng ý tốt hoặc không tốt của người sử dụng lao động (NSDLĐ). Đời sống của họ, rộng ra là cả vợ và con của họ đều phụ thuộc vào NSDLĐ. Mỗi quyết định của NSDLĐ họ xem như sự phán quyết của “thượng đế”. Vì lương, thu nhập, tương lai thế hệ con cháu họ phụ thuộc vào lòng tốt, sự quan tâm của NSDLĐ...

Kết quả khảo sát cho thấy, về mức lương, nếu NLĐ làm đủ ngày công, giờ công thì mức lương trung bình được nhận là 5.792.000 đồng. Nếu chúng ta tạm không tính đến những công việc nguy hiểm (được phụ cấp 5%) và những lao động được đào tạo có bằng cấp (lương tăng thêm 7%), thì mức lương trung bình này chỉ còn 5.097.000 đồng. Nghĩa là mức lương trung bình mà NLĐ Việt Nam nhận được nếu làm việc theo đúng yêu cầu của NSDLĐ chỉ vào khoảng 200 đến 250 đô la Mỹ/người/tháng.

Cần dồn sức lo cho nguồn lực cơ bản của quốc gia
Tiền lương thấp ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống của MLĐ, do đó việc tăng lương để ổn định cuộc sống của NLĐ là cần thiết. Trong ảnh: Công nhân Khu công nghiệp Nam Thăng Long tại nơi thuê trọ. Ảnh: N. LIÊN.

“Ráo mồ hôi” là “ráo tiền”

Mức lương trung bình qua khảo sát nói trên quá thấp, có thể gọi là mức lương “chết đói”, vì:

1. Chi phí tiền thuê nhà (để có chỗ ở) của NLĐ bình quân khoảng 1.498.000 đồng. Trong đó vùng I là 1.584.000 đồng, vùng IV là 1.207.000 đồng. Số tiền này đã cao hơn nhiều so với phần chi phí cho chỗ ở mà bộ phận kỹ thuật tính trong lương tối thiểu.

2. Tiền ăn (chi cho bữa ăn hằng ngày - dự tính ở mức thấp), khoảng từ 1.920.000 đồng đến 2.000.000 đồng/người/tháng. Nếu NLĐ ăn uống tập trung sẽ có sự san sẻ, người nhiều bù người ít và sử dụng những món ăn không đắt nếu là thịt (thịt ba chỉ hoặc thịt nhiều mỡ), cá rô đồng hoặc cá rô phi (nếu là cá); đậu phụ, rau muống, rau dền... và sử dụng loại gạo có giá trị không cao (15.000 đồng/kg). Cộng thêm với chi phí chất đốt và các loại chi tiêu khác phục vụ cho bữa ăn của NLĐ, chúng tôi tạm tính chung khoảng 2.500.000 đồng đến 3.000.000 đồng/người/tháng...

Như vậy, những chi phí tối thiểu cho ăn, mặc, nhu cầu đi lại... chúng tôi gọi chung là chi cho lương thực, thực phẩm khoảng 2.500.000 đồng đến 3.000.000 đồng/người/tháng. Số này cộng với 1.498.000 đồng tiền chỗ ở, thì mức chi tối thiểu đã là trên 4.000.000 đồng/người/tháng. Đây là mức hạch toán thật sự chi li, tằn tiện. Số này chưa tính đến chi phí cho người ăn theo, chi nuôi con nhỏ, chi cho nhu cầu văn hóa tinh thần (mà loại chi này, nhằm phân biệt động vật có trí tuệ là con người, với động vật nói chung).

Với mức lương bình quân hiện nay (trên 5.000.000 đồng/người/tháng), thử hỏi NLĐ còn bao nhiêu nữa cho những nhu cầu mà chúng tôi vừa kể ra? Đây là lý do để chúng tôi nói rằng hiện nay NLĐ đang sống bằng mức lương “chết đói”. Họ “ráo mồ hôi” là “ráo tiền”. Họ không hề có tích lũy - cái khoản mà trong điều kiện của Việt Nam không thể không tính đến.

Cuộc khảo sát nói trên của Viện Công nhân và Công đoàn còn cho thấy: 55,6% NLĐ được hỏi cho biết, tiền lương và thu nhập chỉ vừa đủ trang trải cuộc sống; 23,2% cho biết họ phải chi tiêu rất tằn tiện, kham khổ mới đủ cân đối giữa thu nhập và chi tiêu; 13,2% cho biết, thu nhập hiện tại là không đủ chi tiêu cho những nhu cầu sống tối thiểu như chúng tôi đã chỉ ra ở trên.

Cũng vì lương thấp, nhu cầu chi tiêu tối thiểu là rất cần thiết, không thế chắt bóp thêm được nữa, nên 12% NLĐ thường phải đi vay để ổn định cuộc sống; 35,5% NLĐ nói khoảng 3 đến 4 tháng một lần lại phải đi vay tiền của người thân, bạn bè; 34,8% nói họ phải vay nợ 1 đến 2 lần/năm. Chỉ có 17,8% NLĐ nói họ chưa phải vay tiền để chi tiêu cho đời sống.

Cần dồn sức lo cho nguồn lực cơ bản của quốc gia
Nhu cầu tăng lương để đảm bảo cuộc sống của NLĐ, ổn định, lành mạnh hóa thị trường lao động ở Việt Nam là cấp bách. Trong ảnh: Công nhân Công ty TNHH Da giày Thuận Phát (Tiền Hải, Thái Bình). Ảnh: THU HƯỜNG

Vấn đề không thể trù trừ thêm nữa

Vì lẽ trên, khá đông NLĐ, mặc dù rất biết lợi ích của Bảo hiểm xã hội (BHXH) đối với cuộc sống của họ trước mắt và trong tương lai, nhưng vẫn có 20,2% cho biết họ phải rút BHXH một lần khi mất việc. Họ đã ở vào thế cùng, vào hoàn cảnh không có chỗ bấu víu nên phải rút, mặc dù biết rằng nếu phải chi tiêu vào tiền BHXH nghĩa là họ phải chịu thiệt đơn, thiệt kép. Khi NLĐ về già, hoặc chẳng may bị mất việc khi còn trẻ (như vấp phải đại dịch Covid-19) thì họ mất luôn BHXH.

Tiền lương thấp ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống của NLĐ. 5,5% NLĐ khi được hỏi cho biết, trong cơ cấu bữa ăn của họ, khoảng 1 tuần/1 lần có cá, hoặc thịt cho gia đình, dù có người phải nuôi trẻ nhỏ. Nhiều NLĐ cho biết họ thường thấy hụt hơi, nhanh mệt hơn so với trước khi có đại dịch Covid-19.

Trên 50% mẫu khảo sát cho thấy, tiền lương và thu nhập thấp đã ảnh hưởng đến việc họ chưa dám lấy vợ hoặc chồng. 53% những người đã lập gia đình thì quyết định chưa sinh con trong khoảng 3-5 năm đầu; nhiều gia đình có con dưới 18 tuổi cho biết con họ không ở cùng bố mẹ. Lý do cơ bản vì lương thấp, họ không thể cáng đáng thêm những người ăn theo.

Tương tự, gần 60% NLĐ được hỏi cho biết họ không thể trang trải chi phí học hành cho con. Với nhóm lao động có dưới 2 con thì 67,4% trả lời rằng, họ không thể bảo đảm chi phí học hành cho con nhỏ (trong độ tuổi đến trường)...

Từ thực trạng này, chúng tôi có một mong muốn cháy bỏng: Chúng ta hãy tiết kiệm các khoản chi chưa có tính cấp bách để dồn sức lo cho cuộc sống của NLĐ, vì họ là nguồn lực cơ bản của quốc gia.

Mức đề xuất của Tổng LĐLĐ Việt Nam là nâng lương cho NLĐ thêm bình quân 6% nữa. Sau đó, nếu sản xuất kinh doanh tiếp tục tăng trưởng, phải nghĩ đến phương án cải cách tiền lương. Vì nhu cầu tăng lương để ổn định cuộc sống của NLĐ và do đó ổn định, lành mạnh hóa thị trường lao động ở Việt Nam là rất cấp bách. Không thể trù trừ thêm chút nào nữa. Hàng triệu NLĐ đang trông chờ quyết định của Chính phủ về vấn đề này.

Nâng cao năng lực truyền thông cho cán bộ công đoàn Nâng cao năng lực truyền thông cho cán bộ công đoàn

Hiểu rõ tầm quan trọng của hoạt động truyền thông trong thời đại mới, Công đoàn Công an Nhân dân (CAND) đã tổ chức tập ...

Huy động nguồn lực xã hội, giảm gánh nặng ngân sách Huy động nguồn lực xã hội, giảm gánh nặng ngân sách

Sau 5 năm triển khai (2016 - 2021) Luật An toàn, vệ sinh lao động (ATVSLĐ), bước đầu đã đạt được một số kết quả ...

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhìn từ câu chuyện đào tạo của doanh nghiệp Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhìn từ câu chuyện đào tạo của doanh nghiệp

Trong bối cảnh phục hồi và phát triển kinh tế sau đại dịch như hiện nay, đào tạo nguồn nhân lực được xem là yếu ...

Tin mới hơn

Kinh tế tư nhân phát triển: Công nhân lớn mạnh, công đoàn vững chắc

Kinh tế tư nhân phát triển: Công nhân lớn mạnh, công đoàn vững chắc

Kinh tế tư nhân đang ngày càng thể hiện được vai trò “một động lực quan trọng của nền kinh tế” như tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XII xác định. Tầm quan trọng và hiệu quả của kinh tế tư nhân từ thực tế 40 năm đổi mới của đất nước một lần nữa cho thấy thành phần kinh tế này đang được định vị lại, có một vị trí xứng đáng.
Kinh tế tư nhân và bứt phá thể chế

Kinh tế tư nhân và bứt phá thể chế

Muốn có doanh nghiệp lớn, thì phải có tư duy lớn và thể chế lớn. Một quốc gia muốn phát triển bền vững không thể thiếu khu vực kinh tế tư nhân năng động, sáng tạo và vững mạnh. Khi thể chế mở đường, doanh nhân sẽ tự tin bước tới.
Công đoàn đồng hành cùng kinh tế tư nhân phát triển bền vững

Công đoàn đồng hành cùng kinh tế tư nhân phát triển bền vững

Trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững, khu vực kinh tế tư nhân cần có sự đồng hành, hỗ trợ thiết thực từ các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó tổ chức Công đoàn giữ vai trò không thể thiếu trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi người lao động và thúc đẩy mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.

Tin tức khác

Phát triển kinh tế tư nhân: Cơ hội và thách thức với tổ chức Công đoàn Việt Nam

Phát triển kinh tế tư nhân: Cơ hội và thách thức với tổ chức Công đoàn Việt Nam

Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia. Nhờ vào sự hỗ trợ của các chính sách cải cách và môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi, khu vực này không ngừng mở rộng quy mô, đa dạng hóa lĩnh vực hoạt động và gia tăng đáng kể về số lượng doanh nghiệp.
Học tập suốt đời – Động lực phát triển của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam

Học tập suốt đời – Động lực phát triển của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam

Bài viết “Học tập suốt đời” của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đã khẳng định sâu sắc vai trò của việc học tập không ngừng trong sự phát triển của đất nước, của mỗi cá nhân, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên, công nhân và người lao động. Học tập không chỉ giúp nâng cao tri thức, mà còn là điều kiện tiên quyết để dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới và cống hiến hết mình vì lợi ích chung.

Nêu bật vai trò của công đoàn trong thực hiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy

Việc sắp xếp, tinh giản bộ máy hành chính ở địa phương nhằm khắc phục tình trạng cồng kềnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý.

Gợi mở văn hóa Công đoàn Việt Nam hướng đến 100 năm hình thành và phát triển

95 năm hình thành và phát triển trong những môi trường khác nhau, trong đó có môi trường rất khốc liệt đã tạo nên một công đoàn Việt Nam bản lĩnh, mạnh mẽ, độc đáo. Vì vậy, đúc kết văn hóa tổ chức công đoàn Việt Nam đã đến lúc là việc cần làm. Để cày vỡ vấn đề này, tôi xin nêu một số vấn đề như là hành trang trên con đường phát triển mới, tô thắm bản sắc công đoàn Việt Nam hướng đến kỷ nguyên mới sẽ có nhiều thay đổi nhanh chóng, lớn lao.

Nhiệm vụ trọng tâm đưa Luật Công đoàn (sửa đổi) vào cuộc sống

Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Công đoàn (sửa đổi) - còn gọi là Luật Công đoàn 2024. Từ Luật Công đoàn đầu tiên được ban hành năm 1957, đây là lần thứ tư Quốc hội xem xét sửa đổi Luật Công đoàn. Luật Công đoàn 2024 được ban hành là kết quả của sự nỗ lực toàn hệ thống Công đoàn Việt Nam, đánh dấu bước trưởng thành của tổ chức Công đoàn trong hoạt động xây dựng và tham gia xây dựng chính sách, pháp luật. Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt của tổ chức Công đoàn là cần sớm đưa Luật vào cuộc sống, đáp ứng vọng, sự mong mỏi của đoàn công đoàn, người lao động.
Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng

Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng

Công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên công đoàn, người lao động có vai trò quan trọng đối với việc góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Ý nghĩa của hoạt động tuyên truyền, vận động này còn góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, tích cực lao động, học tập và công tác, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Xem thêm